Đây là chuỗi hội thảo quốc tế lần thứ 2 được ĐH Đông Á và IEDRC đồng tổ chức trong năm 2018 sau chuỗi hội thảo khoa học quốc tế về "Kinh doanh điện tử và ứng dụng" lần thứ 1, năm 2018 (gọi tắt là ICEBA 2018) và "Kinh tế học quản trị và Quản trị Marketing" lần thứ 7, năm 2018 (gọi tắt là CEBMM 2018 Năm 2022, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên dành khoảng 40% tổng chỉ tiêu cho phương thức xét tuyển dựa trên kết quả Kỳ thi ĐGNL của ĐHQG-HCM. Trong đó, ngành Khoa học Máy tính (Chương trình Tiên tiến) có điểm chuẩn cao nhất với 1001 điểm. Đây là lần đầu tiên trong các SGK Lớp 2 Kết nối tri thức với cuộc sống Bộ sách giáo khoa lớp 2 mới; Bộ sách Kết nối tri thức với cuộc sống điện tử trên Hoc10 dành cho học sinh lớp 2 bao gồm các môn học: Toán, Tiếng Việt, Tiếng Anh, Đạo Đức, Tự nhiên và xã hội, Âm nhạc, Mĩ thuật, Giáo dục thể chất, Hoạt động trải nghiệm. Ngày 1.8, Trường Đại học Khoa học Xã hội và Nhân văn, Đại học Quốc gia TPHCM công bố điểm ngưỡng đảm bảo chất lượng đầu vào (điểm sàn) bằng phương thức xét điểm thi tốt nghiệp THPT năm 2022. Theo công bố, điểm ngưỡng đảm bảo chất lượng đầu vào bằng Những phát hiện mới đây của khoa học tự nhiên - như ra-di-om, điện tử, sự biến hoá của nguyên tố - đều xác nhận một cách tuyệt diệu chủ nghĩa duy vật biện chứng của Mác, bất chấp những học thuyết của các nhà triết học tư sản cùng với việc họ "lại" quay về với chủ nghĩa duy tâm đã cũ kỹ và thối nát. LDFmF. Hiện nay các ngành khoa học tự nhiên và xã hội, được phân biệt chủ yếu bởi đối tượng nghiên cứu của họ, được tích hợp vào các ngành khác nhau, như trường hợp của tâm lý học hoặc khoa học môi trường. Điều này chủ yếu là do tính ưu việt của các phương pháp nghiên cứu của khoa học tự nhiên, đã được khoa học xã hội áp nhiên, hai khía cạnh của khoa học được phân biệt bởi một số khía cạnh rất quan trọng, hoặc ít nhất đó là trường hợp ban đầu. Trong bài viết này, chúng tôi sẽ mô tả 7 sự khác biệt chính giữa khoa học tự nhiên và xã hội; Trong mọi trường hợp, chúng ta phải nhớ rằng không thể khái quát các tuyên bố này cho tất cả các biểu hiện khoa học. Bài viết liên quan "5 sự khác biệt giữa khoa học và công nghệ"Khoa học và sự phân nhánh của nóKhoa học được định nghĩa là tập hợp của các hoạt động có hệ thống nhằm mục đích thu nhận và tổ chức kiến ​​thức về các loại hiện tượng khác nhau để giải thích và dự đoán các khía cạnh của thực tế. Chúng ta nói về khoa học tự nhiên khi đối tượng nghiên cứu là hiện tượng tự nhiên và khoa học xã hội nếu hoạt động của con người được phân lý, được coi là khoa học tự nhiên cơ bản, phụ thuộc rất nhiều vào toán học; tuy nhiên, sau này là một khoa học chính thức. Các ngành khoa học tự nhiên khác đặc biệt nổi bật là hóa học, địa chất, hải dương học, thiên văn học, khí tượng học và sinh học, lần lượt bao gồm y học, động vật học hoặc thực vật lại, trong số các ngành khoa học xã hội là các ngành như lịch sử, kinh tế, nhân chủng học, khảo cổ học, xã hội học, địa lý, giáo dục, luật, nhân khẩu học, ngôn ngữ học, khoa học chính trị hoặc truyền giới giữa khoa học xã hội và tự nhiên nó khuếch tán với tần suất lớn trong nhiều ngành; Một ví dụ điển hình cho điều này là tâm lý học, trong đó một truyền thống triết học - nhân văn cùng tồn tại với một thứ khác gần gũi hơn với sinh học. Xét cho cùng, phương pháp khoa học là như nhau bất kể áp dụng cho một hay loại hiện tượng khác. Bài liên quan "Tâm lý học có phải là khoa học không?"Sự khác biệt giữa khoa học xã hội và tự nhiênTiếp theo chúng tôi sẽ mô tả 7 sự khác biệt quan trọng nhất giữa khoa học xã hội và tự nhiên, ít nhất là từ định nghĩa cổ điển của nó; Trong những thập kỷ gần đây, tiến bộ khoa học đã ủng hộ việc tích hợp các ngành khác nhau, ưu tiên lựa chọn các lĩnh vực kiến ​​thức khác nhau về các mục tiêu của mỗi cuộc điều Đối tượng nghiên cứuTrong khi các khoa học tự nhiên đối phó với các hiện tượng vật lý và tự nhiên, thì các khoa học xã hội có vai trò là đối tượng của con người. Do đó, kinh tế, chính trị hoặc tâm lý xã hội đề cập đến các sản phẩm của hoạt động của các nhóm xã hội; thay vào đó, hóa học, thiên văn học và khoa học thần kinh phân tích các khía cạnh hữu hình hơn của thực tế. Có thể bạn quan tâm "15 loại năng lượng chúng là gì?"2. Lịch sử và sự phát triểnSự ra đời của khoa học xã hội thường được xác định với Khai sáng, diễn ra vào thế kỷ thứ mười bảy và mười tám, nhưng sự hợp nhất của nó đã không diễn ra cho đến thế kỷ mười chín và hai mươi. Thay vào đó, khoa học tự nhiên lâu đời hơn nhiều loài người đã nghiên cứu các lực của tự nhiên kể từ khi bắt đầu lịch sử tập thể của chúng Cơ sở lý thuyếtKhoa học tự nhiên hỗ trợ nhiều hơn khoa học xã hội trong khoa học chính quy, chủ yếu là toán học, để cấu trúc thực tế một cách nghiêm ngặt. Trong khoa học xã hội chủ nghĩa thực chứng phản ánh một xu hướng tương tự, mặc dù dòng giải thích cũng có liên quan, nó cố gắng đưa ra một ý nghĩa cụ thể cho các hiện tượng được nghiên Phương pháp nghiên cứuNhiều phương pháp nghiên cứu phổ biến nhất của khoa học hiện nay đến từ khoa học tự nhiên; Theo nghĩa này, toán học và phương pháp thực nghiệm là rất quan trọng. Mặc dù các ngành khoa học xã hội đã áp dụng các công cụ này, nhưng họ cũng ưu tiên quan sát, khảo sát hoặc nghiên cứu trường hợp vì sự phức tạp của thực tế xã hội. 5. Mức độ chủ quanCác ngành khoa học xã hội đã bị chỉ trích vì sự thiếu nghiêm ngặt được cho là liên quan đến việc sử dụng phương pháp khoa học để phân tích các sự kiện trừu tượng. Trong trường hợp của khoa học tự nhiên, mức độ khách quan rõ ràng có xu hướng lớn hơn bởi vì họ nghiên cứu các hiện tượng vật lý và quan sát được; dù sao, tất cả các công việc khoa học giảm theo một cách nào đó thực tế. 6. Năng lực khái quát hóaVì khoa học tự nhiên tìm cách hạn chế vai trò của tính chủ quan, khả năng khái quát hóa kết quả nghiên cứu của họ lớn hơn trong trường hợp của khoa học xã hội, trong đó thường không thể tránh khỏi các cấu trúc giả thuyết không thể chứng minh được hiện tượng khách quan và không thể lặp lại được phân Quan điểm của nhà khoa họcCác nhà khoa học xã hội không bao giờ có thể hoàn toàn quên đi hiện tượng mà họ nghiên cứu, vì họ tích cực tham gia vào thực tế xã hội. Mặt khác, từ khoa học tự nhiên, việc áp dụng quan điểm bên ngoài là khả thi hơn; Do đó, chuyên gia sinh lý thần kinh nghiên cứu hệ thần kinh thực hiện điều đó từ bên ngoài, mặc dù niềm tin của ông ảnh hưởng đến nghiên cứu. Hiện nay các môn học được Bộ Giáo dục chia làm 2 ban chính Khối Khoa học xã hội & Khối Khoa học tự nhiên. Môn tự nhiên được dạy ở cấp trung học cơ sở, những môn này tạo tiền đề giúp học sinh phát triển năng lực, bổ sung kiến thức, kĩ năng nền tảng và phương pháp học tập để tiếp tục học lên trung học phổ thông, học nghề hoặc tham gia vào cuộc sống thực tiễn. Vậy Khối tự nhiên gồm những môn nào? Học khối này tương lai làm nghề gì? Câu trả lời có trong bài viết sau đây nhé! Khối tự nhiên bao gồm các môn khoa học nghiên cứu hướng đến mục đích nhận thức, mô tả, giải thích và dự đoán về các hiện tượng và quy luật tự nhiên, dựa trên những tài liệu đã được kiểm chứng. Hay nói cách khác khoa học tự nhiên là môn học được xây dựng và phát triển trên nền tảng của Hóa Học, Vật lý, Sinh học và Khoa học Trái Đất,… Đồng thời, với sự tiến bộ của nhiều ngành khoa học khác liên quan như Tin học, Toán học,… cũng góp phần giúp cho Khoa học tự nhiên ngày càng phát triển. Với Khoa học tự nhiên thường nghiên cứu những đối tượng như hiện tượng, sự vật, quá trình, quy luật của thế giới tự nhiên. Vai trò của môn khoa học tự nhiên Khoa học tự nhiên có vai trò rất quan trọng đối với học sinh lẫn giáo viên, trong đó thực nghiệm và tìm hiểu là hình thức dạy học đặc trưng của môn học này. Từ đó, năng lực khám phá, tìm tòi được phát triển một cách rõ rệt. Ngoài ra, những kiến thức của khoa học tự nhiên rất gần gũi với cuộc sống hàng ngày. Vì vậy, đây cũng là điều kiện để học sinh có thể tìm tòi, học hỏi, trải nghiệm, nâng cao nhận thức cũng như khả năng vận dụng kiến thức khoa học vào đời sống. Khoa học tự nhiên ngày càng phát triển, do đó để đáp ứng nhu cầu của xã hội đòi hỏi giáo dục phổ thông luôn cập nhật những thành tựu mới, những tiến bộ của ngành công nghệ và kỹ thuật. Có thể nói, Khoa học tự nhiên là môn học vô cùng quan trọng đối với học sinh, bởi nó là nền tảng trong việc hình thành và phát triển thế giới quan khoa học của học sinh cấp trung học cơ sở, đồng thời nó còn góp phần cung cấp nguồn nhân lực trẻ cho đất nước. Cấu trúc của môn khoa học tự nhiên Môn Khoa học tự nhiên được dạy ở trung học cơ sở là môn học bắt buộc, giúp học sinh phát triển các phẩm chất, năng lực, kỹ năng nền tảng và kiến thức để làm cơ sở tiếp tục học lên trung học phổ thông, học nghề hoặc tham gia vào đời sống. Chương trình môn Khoa học Tự nhiên của lớp 6, 7, 8, 9 có 3 phần tương ứng với kiến thức thuộc lĩnh vực Vật lý, Sinh học, Hoá học như sau Lớp 6 Hoá học 20% – Vật lý 32% – Sinh học 38% Lớp 7 Hoá học 24% – Vật lý 28% – Sinh học 38% Lớp 8 Hoá học 31% – Vật lý 28% – Sinh học 31% Lớp 9 Hoá học 31% – Vật lý 30% – Sinh học 29% Khối khoa học tự nhiên gồm những môn gì? Theo Bộ giáo dục thì khối khoa học tự nhiên gồm những môn mang tính chất suy luận về các hiện tượng tự nhiên dựa trên những thực nghiệm được kiểm chứng, đó là các môn như Vật lý, Sinh học, Hóa học. Môn KHTN hình thành và phát triển ở học sinh năng lực KHTN, bao gồm các thành phần nhận thức khoa học tự nhiên; tìm hiểu tự nhiên; vận dụng kiến thức, kĩ năng đã học. Môn KHTN góp phần giúp học sinh trở thành những công dân có trách nhiệm, cần cù, văn hoá, sáng tạo, đáp ứng nhu cầu phát triển của cá nhân và yêu cầu của sự nghiệp xây dựng, bảo vệ đất nước trong thời đại toàn cầu hoá và cách mạng công nghiệp mới. Khối khoa học tự nhiên gồm những ngành nào? Nhóm ngành Kinh tế – Ngân hàng – Luật Nhóm ngành này đều có thể xét tuyển qua tổ hợp các môn tự nhiên. Một số ngành tiêu biểu như Kế toán, Kinh tế, Marketing, Quản trị Kinh doanh, Tài chính Ngân hàng. Nhóm ngành Nghệ thuật Nhóm ngành không có môn tự nhiên nào dùng để tuyển sinh vì không phải thuộc nhóm ngành khoa học, kỹ thuật. Nhóm ngành Truyền thông – Báo chí Không có tổ hợp tự nhiên xét tuyển ngành này mà nó thường sẽ được kết hợp giữa 2 môn xã hội và một môn tự nhiên. Một số ngành điển hình như Quan hệ Quốc tế, Ngôn ngữ Anh, Quan hệ Công chúng, Ngôn ngữ học, Tâm lý học, Báo chí. Nhóm ngành Văn hóa – Ngoại ngữ Đa phần các ngành của nhóm này không phải là tổ hợp tự nhiên mà chủ yếu là khối D và khối C. Nhóm các trường Kỹ thuật Nhóm ngành này hoàn toàn xét tuyển 100% tổ hợp tự nhiên. Một số ngành tiêu biểu như Công nghệ cơ khí ô tô, cơ khí, công nghệ thông tin, công nghệ sinh học và thực phẩm. Nhóm ngành Giao thông Nhóm ngành này có nhiều tổ hợp xét tuyển các môn tự nhiên. Nhóm ngành này được đào tạo tại những trường như Đại học giao thông vận tải,… Nhóm ngành Xây dựng Nhóm ngành này có nhiều tổ hợp xét tuyển các môn tự nhiên và thêm một môn năng khiếu. Nhóm ngành này được đào tạo tại những Trường Đại học Xây dựng và nhiều trường đại học liên quan khác. Nhóm ngành Kiến trúc Nhóm ngành này, học sinh ngoài xét tuyển những môn tự nhiên còn phải thi thêm các môn năng khiếu như Vẽ. Nhóm ngành Khoa học tự nhiên – Kỹ thuật công nghệ Nhóm ngành này chắc chắn xét tuyển những môn tự nhiên. Những nhóm ngành tiêu biểu như Kỹ thuật phần mềm, Kỹ thuật máy tính, Khoa học máy tính, Mạng máy tính & Truyền thông. Nhóm ngành Cơ bản – Sư phạm – Sư phạm Kỹ thuật Đối với nhóm ngành Sư phạm, những môn tự nhiên nào thì sẽ xét tuyển những môn đó ví dụ như Sư phạm Hóa học, Sự phạm Tin học, Toán ứng dụng, Sư phạm Toán học. Nhóm ngành Y dược – Nông lâm – Thú y Đa số các ngành Y dược hay Thú y sẽ xét tuyển các tổ hợp môn khối B. Tuy nhiên, với nhóm ngành Nông lâm thì có thể xét tuyển qua các tổ hợp môn khối A. Một số ngành tiêu biểu như Chăn nuôi, Công nghệ sinh học, Bảo vệ thực vật, Quản lý tài nguyên & môi trường, Sư phạm. Nhóm ngành các Trường Đại học địa phương Các trường đại học địa phương như Trường Đại học Tây Nguyên, Trường Đại học Cần Thơ, Trường Đại học Đà Lạt,… đều có các ngành đào tạo tổ hợp các môn tự nhiên, và các môn khối A. Có nên học khối khoa học tự nhiên hay không? Dù khối khoa học tự nhiên hay khoa học xã hội thì mỗi ban đều có tính chất, đặc điểm riêng. Vì vậy mỗi học sinh cần xác định mình thích gì, thế mạnh môn gì, khả năng cũng như tương lai bạn muốn trở thành người như thế nào. Nếu bạn muốn học các môn tự nhiên thì bạn phải đảm bảo mình có những yếu tố sau Tư duy tốt Mang tính lý trí Thích những môn tính toán, kỹ thuật. Thích phân tích, lên kế hoạch, chiến lược. Còn nếu bạn theo khối xã hội bạn cũng cần có những yếu tố Thiên về tình cảm, cảm xúc. Thích những môn như ngôn ngữ, lịch sử, văn chương, vẽ tranh,… Bạn có tính nghệ thuật. Xem thêm Tốt nghiệp trung học phổ thông là gì? Gồm những môn nào? Bao nhiêu điểm là đậu? Mục đích học tập của học sinh là gì? Ý nghĩa và tầm quan trọng của việc xác định mục đích học tập Phương tiện dạy học là gì? Vai trò và nguyên tắc sử dụng phương tiện dạy học Dù bạn học khối khoa học tự nhiên hay xã hội thì cũng có thể thành công nếu bạn nhận ra sở thích, đam mê và mong muốn mình trở thành người như thế nào! Chúc bạn thành công. Chắc hẳn còn rất nhiều bạn vẫn chưa biết rõ hết sự khác nhau giữa hai khối tự nhiên hay khối xã hội đúng không? Nếu vẫn còn lơ mơ thì hãy đọc ngay bài viết dưới đây để tránh tình trạng “sai một li đi cả ngàn dặm” khi chọn ngành và chọn trường nhé! Đầu tiên hãy xem mình là người mang những đặc điểm phù hợp với khối tự nhiên hay khối xã hội nào bằng trắc nghiệm nhỏ dưới đây. Nếu bạn trả lời đúng cho khối nào nhiều hơn có nghĩa bạn phù hợp hơn với khối đó Người phù hợp với khối tự nhiên Bạn tư duy logic Bạn thích làm việc độc lâp Bạn tò mò Bạn thích tranh luận Những thứ không có lời giải đáp sẽ khiến bạn phát điên Bạn thường đọc báo, xem tivi về những chuyên mục xã hội, chính trị Khi rảnh rỗi bạn thích ở nhà và lướt web Bạn bè thường nhận xét bạn là một người thông minh Những đặc điểm giúp bạn chọn khối tự nhiên khi phân vân khối tự nhiên hay khối xã hội Người phù hợp với khối xã hội Bạn nhạy cảm Bạn hòa đồng Bạn thích viết lách Bạn giàu cảm xúc Bạn thích làm việc nhóm Bạn thích xem phim Bạn thích những chuyên mục giải trí Bạn thích những người thú vị và có nhiều tài lẻ Bạn được bạn bè nhận xét là có nhiều ý tưởng sáng tạo Những đặc điểm giúp bạn chọn khối xã hội khi phân vân khối tự nhiên hay khối xã hội Nếu thấy mình thiên về khối nào hơn thì bây giờ hãy xem sự khác nhau giữa khối tự nhiên hay khối xã hội là gì nhé! – Khối tự nhiên bao gồm các môn khoa học nghiên cứu hướng đến mục đích nhận thức, mô tả, giải thích và tiên đoán về các hiện tượng và quy luật tự nhiên, dựa trên những dấu hiệu được kiểm chứng chắc chắn. – Khối xã hội Khoa học xã hội bao gồm các môn khoa học nghiên cứu về các phương diện con người của thế giới. Xem thêm Chọn đúng ngành dưới đây, biết đâu sau này teen 2k4 sẽ là tỷ phú! Khác nhau về các ngành trong khối tự nhiên hay khối xã hội Khối tự nhiên Khối xã hội Nghiên cứu khoa học Toán học, Vật lý học, Hóa học, Sinh vật học, Sinh thái học, Động vật học, Thực vật học, Thổ nhưỡng, Nông học, Lâm học, Bệnh học thủy sản, Thú y, Bệnh học cây trồng… Kỹ thuật công nghệ Công nghệ sinh học, Khoa học môi trường, Khí tượng thủy 9văn, Hải dương học, Nghiên cứu địa lý, Nghiên cứu địa chất, Nghiên cứu xây dựng, Nghiên cứu vật liệu mới, Công nghệ hóa học, Chuyên gia dinh dưỡng, Công nghệ thực phẩm. Nghiên cứu khoa học Triết học, Tâm lý học, Văn học, Xã hội học, Ngôn ngữ học, Sử học… Khác Luật, Marketing, Quan hệ công chúng PR, Luật, Du lịch… Lựa chọn là của bạn Dù cho bạn chọn khối tự nhiên hay khối xã hội thì bạn cũng cần trang bị cho mình những kiến thức cũng như phương pháp học phù hợp với khối mà mình lựa chọn Về phương pháp Ví dụ như đối với những bạn theo khối tự nhiên thì hãy luyện thật nhiều đề, giải thật nhiều bài, chỉ cần “quen tay” là sẽ lên trình rất nhanh đó.. Còn các bạn theo khối xã hội thì hãy bỏ ngay tư tưởng học vẹt, học tủ, tránh hiện tượng “tủ đề” đáng tiếc. Các bạn có thể lập dàn ý để không bỏ sót ý và lập bản đồ tư duy để ghi nhớ kiến thức một cách mạch lạc và logic hơn. Về kiến thức Kỳ thi năm nay độ phủ kiến thức sẽ lớn hơn nhiều những năm trước, bạn sẽ chẳng học tủ được gì đâu.. Thời gian thi thì có hạn, biển kiến thức thì mênh mông, bạn hãy trang bị thật tốt kiến thức cho mình nhé. Thời gian bằng tháng chỉ còn đếm trên đầu ngón tay, các bạn nên có kế hoạch ôn thi đại học tốt nhất cho mình nhé! Tham khảo ngay khóa ôn thi đại học siêu bứt phá từ App HOCMAI! Mừng Tết đến và lộc đến nhà nhà, App HOCMAI tung Game “Ươm Mầm Tết Xanh” 2022! Cùng chăm cây nhận thưởng, “hốt” lì xì với các Mini Game cực “cool” ngày Tết. Dịp nghỉ lễ Tết Nhâm Dần 2022 này, App HOCMAI mang đến cho bạn Một “bé cây” của riêng mình để chăm sóc Các Mini Game Ô ăn quan, Câu đố vui, Cờ Caro siêu vui Game chăm cây ảo, trao cây thật phủ xanh đồi trọc cùng Sùng A Cải Cơ hội nhận hàng ngàn phần quà trị giá lên tới 1 TỶ ĐỒNG Chi tiết sự kiện xem tại Sự kiện sẽ diễn ra từ 29/01/2022 đến 31/3/2022. Hãy tải ngay App HOCMAI để cùng chơi game nhận quà nhé! HOCMAI miễn phí nhiều khóa học bổ trợ – đề thi thử – phương án học tập và ôn luyện bứt phá 9+ đanh cho học sinh lớp 1-12. Tải & hoàn thành đăng ký tài khoản để nhận ngay những khóa học bổ trợ miễn phí! Sự khác biệt giữa Khoa học tự nhiên và Khoa học xã hội - Sự Khác BiệT GiữA NộI DungSự khác biệt chính - Khoa học tự nhiên và Khoa học xã hộiKhoa học tự nhiên là gìKhoa học xã hội là gìSự khác biệt giữa Khoa học tự nhiên và Khoa học xã hội Khoa học có thể được mô tả chung như một nỗ lực để hiểu, giải thích và đưa ra dự đoán về thế giới bằng các phương pháp điều tra riêng biệt trong nỗ lực xây dựng các lý học có thể được phân thành hai nhánh chính được gọi là khoa học tự nhiên và khoa học xã hội. Khoa học tự nhiên là một nhánh của khoa học liên quan đến thế giới tự nhiên trong khi khoa học xã hội là một nhánh của khoa học liên quan đến xã hội loài người và các mối quan hệ xã hội. Như vậy, Sự khác biệt chính giữa khoa học tự nhiên và khoa học xã hội là thế khoa học tự nhiên nghiên cứu các sự kiện tự nhiên trong khi khoa học xã hội nghiên cứu xã hội loài người. Bài viết này sẽ giải thích, 1. Khoa học tự nhiên là gì? - Định nghĩa, đặc điểm, chi nhánh, ngành nghề liên quan 2. Khoa học xã hội là gì? - Định nghĩa, đặc điểm, chi nhánh, ngành nghề liên quan 3. Sự khác biệt giữa Khoa học tự nhiên và Khoa học xã hội là gì? Khoa học tự nhiên là gì Khoa học tự nhiên giao dịch với thế giới tự nhiên. Nó liên quan đến các hiện tượng và đối tượng của tự nhiên và thế giới vật chất. Khoa học tự nhiên liên quan đến sự hiểu biết, mô tả và dự đoán các hiện tượng tự nhiên bằng cách sử dụng bằng chứng thực nghiệm và quan sát. Giả thuyết hình thành trong khoa học tự nhiên phải được xác minh một cách khoa học để được coi là một lý thuyết khoa học. Khoa học tự nhiên có thể được chia thành hai nhánh chính được gọi là khoa học sinh học khoa học đời sống và khoa học vật lý. Khoa học sinh học quan tâm đến các sinh vật sống trong khi khoa học vật lý quan tâm đến thế giới vật lý. Khoa học vật lý được chia thành các nhánh phụ, bao gồm hóa học, vật lý, thiên văn học và khoa học Trái đất. Những ngành này có thể được chia thành các lĩnh vực chuyên ngành hơn. Khoa học tự nhiên là một trong những ngành học chính của các sinh viên trên toàn thế giới. Nhánh khoa học tự nhiên này thường được gọi đơn giản là khoa học, hay nghiên cứu khoa học. Nhiều ngành nghề phổ biến như bác sĩ, y tá, kỹ sư, nhà địa chất, nhà thiên văn học, nhà hóa học, nhà sinh học, ... đòi hỏi kiến ​​thức về khoa học tự nhiên. Khoa học xã hội là gì Khoa học xã hội là một lĩnh vực rộng lớn liên quan đến xã hội loài người và các mối quan hệ giữa các cá nhân trong đó. Lĩnh vực này cũng có một số lượng lớn các lĩnh vực phụ như kinh tế, địa lý, khoa học chính trị, nhân chủng học, lịch sử, khảo cổ học, ngôn ngữ học, luật và xã hội học. Sự khởi đầu của Khoa học xã hội như một lĩnh vực nghiên cứu có thể bắt nguồn từ năm 18thứ thế kỷ. Các nhà khoa học xã hội sử dụng các phương pháp khoa học giống với các phương pháp được sử dụng trong khoa học tự nhiên để hiểu xã hội; tuy nhiên, phê bình xã hội và phương pháp diễn giải cũng được sử dụng trong khoa học xã hội. Sinh viên khoa học xã hội có thể theo đuổi các ngành nghề như luật sư, thẩm phán, nhân viên xã hội, nhà sử học, nhà khảo cổ học, nhà báo, nhà văn, giáo viên, nhà ngôn ngữ học, thủ thư, kế toán, Sự khác biệt giữa Khoa học tự nhiên và Khoa học xã hội Định nghĩa Khoa học Tự nhiên Khoa học tự nhiên là một nhánh của khoa học liên quan đến thế giới vật lý. Khoa học xã hội Khoa học xã hội là nghiên cứu về xã hội loài người và các mối quan hệ xã hội. Chi nhánh Khoa học Tự nhiên Khoa học tự nhiên bao gồm các lĩnh vực như sinh học, hóa học, vật lý, khoa học trái đất và thiên văn học. Khoa học xã hội Khoa học xã hội bao gồm các lĩnh vực như kinh tế, khoa học chính trị, luật pháp, địa lý, giáo dục, lịch sử, ngôn ngữ học và nhân học. Phương pháp Khoa học Tự nhiên Khoa học tự nhiên luôn sử dụng các phương pháp khoa học. Khoa học xã hội Khoa học xã hội sử dụng các phương pháp khoa học cũng như các phương pháp khác. Nghề nghiệp Khoa học Tự nhiên Sinh viên khoa học tự nhiên có thể trở thành bác sĩ y khoa, y tá, kỹ sư, nhà sinh học, nhà hóa học, nhà thiên văn học, Khoa học xã hội Sinh viên khoa học xã hội có thể trở thành luật sư, nhà ngôn ngữ học, nhà sử học, nhà văn, nhà báo, giáo viên, kế toán, Hình ảnh Courtersy Khoa học tự nhiên Montage Montage bởi Misc. - Tập tin Hóa chất trong Georgia Aquarium - Giant Phần 1 đã điểm qua hành trình phát triển của nền khoa học của nhân loại, dưới góc nhìn về khám phá thời gian và không gian. Phần 2 này sẽ là những phát kiến và những tiến bộ trong việc phát triển khoa học tự nhiên và khoa học xã trong những điều kiện tiên quyết để phát triển khoa học tự nhiên là việc con người phải thấy được cái mà họ cần nghiên cứu, từ những thứ khổng lồ như thiên thể và thiên hà đến những thứ nhỏ bé như vi trùng và phân suốt thời cổ và trung đại, con người đã luôn tin vào thuyết địa tâm, tức là các hành tinh xoay quanh trái đất. Điều này đã ăn sâu trong tâm trí nhân loại trong cả ngàn năm, mặc cho một số nhà quan sát chuyên nghiệp đã phát hiện ra những bất thường trong chuyển động của các thiên thể mà người không chuyên sẽ khó mà thấy được. Những điều bất thường đó thường sẽ bị bỏ qua bằng cách đắp vào một số niềm tin tôn Copernicus xuất hiện. Ông tin vào toán học, giác quan, quan sát và đo đạc nhiều hơn là ông tin vào những điều dạy trong sách thánh. Ông đã cho ra những ý tưởng về thuyết nhật tâm, nhưng nó được phổ biến vào thời của ông, mà sau này mới được Galileo quan sát, kiểm chứng và tái khẳng sao thì việc quan sát vũ trụ bằng mắt thường cũng chỉ có một giới hạn cụ thể. Mắt người khó có thể thấy được những ngôi sao rất nhỏ hoặc độ sáng rất yếu, vì vậy việc kính viễn vọng được phát minh đã mở rộng tầm mắt con người hơn bao giờ tưởng về kính viễn vọng được nhen nhóm khi những thợ thuỷ tinh tình cờ phát hiện ra sự khúc xạ của ánh sáng khi đi qua kính. Qua nhiều thử nghiệm, họ làm ra những dạng thấu kính đầu tiên. Những bộ kính viễn vọng đầu tiên là sự kết hợp giữa một thấu kính lồi và một thấu kính lõm, phóng to hình ảnh nhìn được gấp nhiều người đã biết Galileo là một nhà thiên văn nổi tiếng, với việc ủng hộ thuyết nhật tâm của Copernicus. Nhưng ít người biết rằng trong hành trình đi đến thành quả đó, ông là người cải tiến công nghệ làm kính viễn vọng. Từ những mẫu kính đầu tiên mà ông có được với độ phóng đại tầm 3x, ông đã liên tục cải tiến để tăng độ phóng đại lên tới 30x. Với việc có công cụ mạnh mẽ trong tay, ông đã thực hiện nhiều quan sát thiên văn để rồi tái khẳng định thuyết nhật tâm và tự kiếm cho mình chỗ chết trong phiên tòa dị giáo. Dù sao thì trái đất vẫn quay, và thuyết nhật tâm ngoài việc sinh ra một lời giải ăn nhập với những quan sát thiên văn, còn thay đổi cách mà con người nhìn nhận vị trí của họ trong vũ trong tay kính viễn vọng để nhìn tới những thứ khổng lồ xa xăm, chẳng có lý gì mà con người không muốn nhìn được những thứ tí hon quanh mình. Sử dụng công nghệ tương tự, kính hiển vi ra đời. Cũng giống như với kính viễn vọng, các thế hệ thợ kính và nhà khoa học đã dần cải tiến kính hiển vi để nhìn thấy những thứ nhỏ hơn. Kính hiển vi đã giúp con người tiến sâu vào thế giới vi trùng và thế giới phân tử, thúc đẩy hoá học, y học và sinh học phát triển mạnh mẽ thời cận và hiện đại. Việc y học phát triển nhờ nhận thức về vi trùng đã tiêu diệt được nhiều bệnh phổ biến như kiết lị, sốt rét, sởi, tăng tỉ lệ người sống sót đến tuổi trưởng thành của con người. Điều này đã làm bùng nổ dân số thế học và giải phẫu học là những ngành khoa học lâu đời, song hành cùng với lịch sử loài người. Chừng nào còn có người ốm, chừng đó còn có y thời cổ đại, thuyết thể dịch của Hippocrates và Galen thống trị nền y học. Về cơ bản, thuyết thể dịch tin rằng cơ thể con người được cấu thành bởi bốn chất cơ bản, gọi là thể dịch. Cân bằng của bốn chất này là điều kiện cơ bản để con người khỏe mạnh. Bệnh tật là hậu quả của tình trạng mất cân bằng của ít nhất một trong bốn chất. Bốn thể dịch là máu, mật đen, mật vàng và niêm dịch - tương ứng với bốn nguyên tố cơ bản cấu thành vũ trụ là không khí, đất, lửa và bấy giờ, tôn giáo tín ngưỡng nghiêm cấm việc mổ xẻ cơ thể người chết. Vì vậy, con người sở hữu tương đối ít kiến thức về những thứ bên trong cơ thể. Kiến thức y dược được con người sưu tầm qua kinh nghiệm trong quá trình thử và sai với các bài thuốc và phương pháp dân gian, còn kiến thức giải phẫu thì gặp cản trở của quan niệm xã hội nên Galen chỉ dừng lại ở mức giải phẫu khỉ, gây ra nhiều sự hiểu lầm về giải phẫu cơ thể tận khoảng năm 1300 thì cơ thể người mới được phép mổ xẻ phục vụ dạy học giải phẫu. Mặc dù tri thức về giải phẫu dần được mở rộng và hệ thống hoá, nhưng những tay bác sĩ lại không muốn đảm nhiệm việc mổ xẻ cơ thể người. Những tay đồ tể, thợ cạo hoặc người phẫu thuật sẽ thực hiện việc trực tiếp động chạm vào thi thể, còn bác sĩ sẽ đứng từ xa và đưa ra chỉ dẫn bằng một cái gậy dài. Việc được phép mổ xẻ cơ thể người thật đã đem lại nhiều kiến thức đúng đắn về cơ thể người hơn là dùng nội tạng khỉ để tưởng tượng ra nội tạng chúng phục hưng, Leonardo Da Vinci đã nổi lên như một nhà giải phẫu học tiên phong lừng danh. Ông quan niệm rằng các bộ phận cơ thể cần được quan sát từ mọi hướng để có thể có được góc nhìn khách quan và kiến thức đầy đủ nhất. Ông chủ trương mổ xẻ có hệ thống và lặp đi lặp lại"Ta sẽ cần ba lần mổ xẻ thì mới có được một hiểu biết đầy đủ về tĩnh mạch và động mạch, trong khi huỷ bỏ mọi thứ còn lại..." - Leonardo Da VinciSau thế hệ của Leonardo, Andreas Vesalius đã nối tiếp những quan sát và thực hành trong giải phẫu. Ông tận dụng mọi cơ hội, dù hợp pháp hay phi pháp, để có được các thi thể hay một phần của thi thể để phục vụ việc nghiên cứu. Học trò của ông thường thấy ông đi lại với một cái cẳng tay hay một cái bắp đùi lủng lẳng trong túi áo. Và để đáp lại cống hiến của ông, trong vòng nửa thế kỷ, giải phẫu học theo Vesalius đã thịnh hành khắp các trường đại học châu Âu. Điều quan trọng mà ông truyền lại là tầm quan trọng của việc nghi ngờ những kiến thức đi trước, cố gắng kiểm chứng chúng qua thực nghiệm và đối chiếu lặp đi lặp Galen, tim có tác dụng như một lò nung giữ nhiệt khắp cơ thể. Nhưng bác sĩ William Harvey đã phản biện điều này. Harvey đã tập trung nghiên cứu mạch máu người, và phát hiện ra một số cơ chế đóng mở van của các mạch máu. Rồi ông đi đến những kết luận như tim đóng vai trò như một máy bơm máu đi nuôi các bộ phận cơ thể, với các mạch máu đóng vai trò đường dẫn và van khóa, điều hoà máu đi đến toàn cơ thể người. Và đó là cách mà nền y học biết đến khái niệm hệ tuần dù việc nền khoa học vẫn tiến lên từng ngày, nhưng hệ thống chia sẻ kiến thức và kết nối giữa các nhà khoa học vẫn chưa có một giải pháp tốt. Nhiều nhà khoa học vẫn hoạt động độc lập hoặc bó hẹp trong một cộng đồng tri thức nhỏ trong quốc gia của họ. Đầu thế kỷ 17, Martin Mersenne xuất hiện như một người trung gian trong giới khoa học. Ông làm quen, kết nối và giữ liên lạc qua thư với nhiều nhà khoa học ở các quốc gia khác nhau. Thư từ của ông lan đến tận London, Syria, Tunisia, Constantinople, tập hợp được những ý niệm và phát minh mới nhất của các nhà khoa học. Ông du nhập sách tiếng Anh vào Pháp và cung cấp sách tiếng Pháp cho các nhà khoa học Anh. Ông đã lập ra mạng lưới quen biết giữa các nhà khoa học và tổ chức các hội nghị khoa học nhằm khuyến khích việc chia sẻ kiến thức trong cộng đồng khoa học. Tiếp nối những ý tưởng của Mersenne là Henry Oldenburg. Nhờ khả năng vượt trội về giao tiếp và ngoại ngữ, ông trở thành một nhà ngoại giao khoa học. Oldenburg chu du qua nhiều quốc gia, tạo dựng nhiều mối quan hệ với các nhà khoa học nổi tiếng. Khi trở về Anh, ông góp sức lập ra Hội hoàng gia, một cộng đồng với mục tiêu gắn kết các nhà khoa học và các ý tưởng khoa học trên thế giới. Các nhà khoa học gửi thư từ và sách vở cho ông, để rồi ông sẽ tổng hợp, phân loại, chuyển tiếp và trả lời thư từ của dà việc làm cầu nối trung gian này cho ra đời việc xuất bản tạp chí khoa học, tổng hợp công trình nghiên cứu của nhiều nhà khoa học từ nhiều nơi rải rác trên châu Âu nói riêng và thế giới nói chung và mang đến công chúng. Đến bây giờ, các tạp chí khoa học vẫn là một nguồn đáng tin cậy và danh giá mà giới khoa học hướng thống nhất về quy tắc cho nền khoa học thế giới, một hệ thống đo lường được đưa lên làm chuẩn mực là một điều cần thiết. Thế giới lúc đó có quá nhiều hệ đo lường cho những thứ như trọng lượng và độ dài, làm cho việc thống nhất về con số trong nghiên cứu khoa học giữa các quốc gia vô cùng khó khăn. Con người nói những ngôn ngữ khác nhau đã là một cản trở, và việc có nhiều hệ đo lường cũng rắc rối không kém hàng thế kỷ thử nghiệm những hệ đo lường khác nhau, giới khoa học dần ngả về một vài hệ như là hệ thập phân trong việc đếm, hệ gram trong trọng lượng, hệ mét trong độ dài. Thống nhất quy tắc đo lường là một chuyện, tăng tính chính xác cho các dụng cụ đo lường cũng chẳng kém phần quan trọng. Thị trường dụng cụ khoa học dần mở rộng, với nhiều kỹ sư liên tục nghiên cứu, phát minh và cải tiến dụng cụ quan sát, đo lường và thí nghiệm, mở rộng bộ công cụ của nền khoa danh vọng và tiền bạc kiếm được từ các phát minh khoa học, giới khoa học xuất hiện nhu cầu về bảo vệ bản quyền. Các nhà khoa học luôn muốn đảm bảo rằng phát minh của họ được công nhận là xuất hiện đầu tiên, sách của họ được xuất bản đến công chúng, và ý tưởng của họ sẽ không bị những đồng nghiệp cướp mất trước khi họ kịp bố cáo thiên hạ. Vì thế, các cơ chế để bảo vệ quyền tác giả và công nhận người đầu tiên khám phá ra kiến thức mới đã được các viện hàn lâm và các hội khoa học lớn dần đưa vào thực tiễn, bảo vệ và tăng động lực sáng tạo cho các nhà khoa khối lượng kiến thức ở khắp các ngành ngày càng mở rộng, việc kiến thức bị phân mảnh, rời rạc, thiếu sự thống nhất và hệ thống hoá là một cản trở lớn khi các nhà khoa học cần truy cập, tìm kiếm, phân loại và bổ sung vào kho trí thức nhân loại. Và ý tưởng về những bộ bách khoa toàn thư ra đời. Ví dụ điển hình như ngành sinh vật học, từ thời Hy Lạp cổ đại đến tận thời phục hưng, các thầy thuốc đã ghi chép lại nhiều loại cây cối và động vật nhưng không theo một quy tắc phổ quát nào cả. Mỗi dân tộc, mỗi vùng miền có một cách gọi một loại sinh vật khác nhau. Carolus Linnaeus là người tiên phong trong việc phân loại sinh vật một cách có hệ thống, chia động vật và thực vật thành các lớp, bộ, chi, loài. Từ đó mà có câu nói"Deus creavit, Linnaeus disposuit" Chúa tạo ra, Linnaeus phân loại. Với nền tảng hiểu biết từ các cơ sở dữ liệu sinh vật đồ sộ được tạo nền tảng bởi Linnaeus cộng với kinh nghiệm và quan sát từ rất nhiều chuyến thám hiểm các vùng đất xa xôi, Darwin đã nghiên cứu và cho ra đời thuyết tiến hoá, một trong những thuyết quan trọng nhất trong lịch sử sinh lịch sử, con người đã có nhiều phương pháp lưu trữ kiến thức. Thời cổ đại, cách duy nhất để lưu trữ kiến thức là nhớ và truyền miệng. Do phần lớn con người thời cổ và trung đại không biết chữ, nên đó là lí do vì sao có các câu châm ngôn, các bài hát, bài thơ, tượng, hình ảnh giúp cô đọng, vần điệu hoá kiến thức, làm con người dễ nhớ và dễ truyền đạt lại cho người khác. Thời đó, thường thì chỉ những nhà bác học, quan lại, vua chúa, thầy tu và các gia đình thượng lưu mới biết trung cổ, những người hiếm hoi biết chữ trong cộng đồng là các tu sĩ. Họ dành phần lớn thời gian để cầu nguyện, đọc sách, chép sách và giảng đạo. Giới giáo sĩ liên tục khuyến khích việc chép sách nhất là Kinh thánh, xúc tác cho việc những tu viện đã trở thành những thư viện trong cộng độ chậm rãi, tốn nhân công, dễ sai sót của việc chép sách đã thúc đẩy nhu cầu tìm ra một giải pháp tốt hơn trong việc nhân bản sách. Và ngành in ấn đã ra đời. Gutenberg đã đúc rút kinh nghiệm từ những thế hệ thợ in trước để cho ra một giải pháp in ấn nổi bật về tính hữu dụng, tính hiệu quả và giá thành cạnh tranh. Với sự bùng nổ của ngành in ấn, các ngôn ngữ địa phương dần nổi lên trong đại chúng và giới khoa học. Trước đó, phần lớn các tác phẩm khoa học và văn học được in bằng tiếng Latin. Giờ đây, mỗi quốc gia lại xuất bản các tác phẩm khoa học và văn học bằng tiếng bản ngữ. Khoa học trở nên đại chúng hơn, khi mà phần lớn người dân các nước sẽ không phải bỏ công học thêm tiếng Latin để có thể đọc hiểu các cuốn sách trên thị trường. Điều này một mặt giúp tri thức sách vở tiến gần hơn đến đại chúng, nhưng lại chia cách tri thức giữa các quốc gia qua một bức tường ngôn ngữ. Sách trở nên rẻ hơn rất nhiều, thúc đẩy người dân ở các tầng lớp lao động và các trường đại học mua sách với số lượng lớn. Các nhà cầm quyền thúc đẩy việc xây dựng các thư viện công cộng ở các đơn vị hành việc sử dụng sách viết bằng tiếng bản ngữ tại các quốc gia phần nào cản trở sự đồng nhất trong giao tiếp của cộng đồng khoa học, họ tìm lại về phương pháp sử dụng một ngôn ngữ duy nhất làm chuẩn cho khoa học. Họ cần một tiếng Latin thứ 2. Và qua nhiều thử nghiệm và vận động, tiếng Anh đã dần dần trở thành ngôn ngữ tiêu chuẩn cho khoa học thế thế hệ con người được sinh ra và chết đi là những câu chuyện, những kinh nghiệm và những sự kiện độc nhất. Nhân loại vẫn luôn nhìn về quá khứ để rút ra những bài học, làm tiền đề cho những ý tưởng mới được ra đời. Từ nhu cầu cơ bản đó mà khái niệm sử học ra đời. Từ sử học, nhiều ngành khoa học khác đã nở thời kỳ sơ khai của các nền văn minh, lịch sử tồn tại ở dạng truyền thuyết hay thần thoại, được truyền miệng trong cộng đồng. Nói ngắn gọn thì lịch sử thời đó giống huyền sử hơn. Các sự kiện thường mang tính ước lệ về mốc thời gian, các nhân vật thì mang nhiều màu sắc thần thánh và hư cấu, các câu chuyện thường kể về nguồn gốc dân tộc hoặc tín người Hy Lạp, từ “lịch sử”, hay "historia" có nghĩa là “biết bằng tìm hiểu”. Bắt đầu bằng những người ngâm thơ sử thi kể về các vị thần và các vị anh hùng, sử gia Hy Lạp dần biến chuyển thành những người viết sử qua văn xuôi. Herodotus, một sử gia Hy Lạp, cảm thấy thích thú với văn hoá những sắc dân hàng xóm của Hy Lạp. Ông chu du khắp các nước như Ai Cập, Syria, Phoenicia, Babylon, tiểu Á. Qua những chuyến đi này, ông tạo ra tác phẩm Historiai, ghi chép về chiến tranh Ba Tư - Hy Lạp, về huyền sử, lịch sử và phong tục các chủng tộc mà ông đã gặp và tiếp xúc. Tác phẩm này được coi là khởi đầu của nền sử học phương Trung Hoa thế kỷ 2 TCN, nhà Hán đang trong công cuộc thống nhất toàn cõi Trung Hoa. Các tiểu quốc dần bị thu phục, và sử liệu của họ là nguồn tư liệu đầy ắp cho nhà Hán. Tuy vậy, mỗi nước lại dùng một bảng niên đại riêng, khiến cho việc đặt tất cả các sự kiện lên cùng một dòng thời gian là việc vô cùng khó khăn. Thời thế tạo anh hùng, một quan chép sử là Tư Mã Thiên đã tập hợp sử liệu của hàng trăm tiểu quốc thành một bộ sử xoay quanh bảng niên đại của nhà Chu. Ông còn phát minh ra các chuẩn mực việc chép sử chia sử liệu thành các đề tài nhỏ hơn như thân thế quân vương, các sự kiện chính trị kinh tế xã hội, tiểu sử những người nổi bật về đức hạnh. Việc này đặt ra quy tắc viết sử của Trung Hoa cho đến hơn 2000 năm sau. Nhưng việc chép sử của Trung Hoa cũng phần nào bị quản lý bởi các bậc cầm quyền, vậy nên nội dung đã có phần nói giảm nói tránh và ít tính phê phán với quá Trung Cổ, lịch sử phương Tây được gắn liền với Kito giáo. Cái nhìn Kito về quá khứ bao bọc các tài liệu xưa trong màn sương của các biểu tượng và nhân vật mang nhiều màu sắc thần thánh. Các sách Phúc Âm nói về tiểu sử và những câu chuyện đời của Jesus. Các tác phẩm lịch sử thường trích dẫn nhiều nội dung trong kinh Thánh để tấn công ngoại giáo và dị giáo. Lịch sử thời đó đã trở thành ghi chú cho chánh kỳ Phục Hưng là lúc mà một số người bắt đầu nhìn lại quá khứ với con mắt khám phá hơn. Tiên phong của việc tìm hiểu quá khứ dưới sự khách quan là nhà nhân văn học người Ý Francesco Petrarch. Khi không ai tò mò về những phế tích của đế chế La Mã hay Hy Lạp, ông lại dành hàng giờ rong ruổi quanh các phế tích, tìm hiểu những câu chữ khắc trên đá, thu thập những đồng xu cổ, nghiên cứu những thư tịch cổ còn sót đầu trong việc phê bình lịch sử là Lorenzo Valla, một tín đồ của sự thật lịch sử. Bằng vốn kiến thức ngôn ngữ học và sử học uyên thâm cộng với tính cách không thoả hiệp, ông đã phê bình các sách lịch sử của giáo hội, từ các trích bản của các thánh đến tận kinh Tân Ước. Ông đã chứng minh “Hiến tặng của Constantine” là giả mạo dựa trên sự sai lệch về ngôn ngữ Latinh, “Thuật hùng biện” không phải của Cicero, hay “Kinh tin kính” không phải do 12 tông đồ viết. Điều này đủ dọn sẵn cho ông và các tác phẩm của ông chỗ đứng trong toà án dị giáo và vị trí trong danh mục sách cấm của giáo thời Phục Hưng, ngành buôn bán vật liệu xây dựng là một nghề ăn nên làm ra ở châu Âu. Nhiều người khai quật và đập phá các phế tích La Mã đem bán. Đến thời Phục Hưng thì một số nhà cầm quyền đã cho ban hành các luật bảo vệ di tích cổ đại. Việc các di tích được để ý và bảo tồn đã truyền cảm hứng cho những thế hệ các nhà khảo cổ học tiên phong. Các tiêu chuẩn kiến trúc và nghệ thuật La Mã cổ điển đã trở thành trào lưu trong giới thượng lưu, dần dần chiếm thế thượng phong mà trở thành chuẩn mực của cái đẹp trên cả lục địa. Trường phái Tân cổ điển vẫn là một trường phái kiến trúc có tầm ảnh hưởng đến tận ngày kỷ 18 là lúc mà con người đã có một nền tảng tương đối về ngành sử học. Nhu cầu lúc này là phân loại các thời kỳ trong lịch sử nhằm các mục đích tra cứu và nghiên cứu, phần nào đó giống như việc phân loại các loài sinh vật của khoa học tự nhiên. Các sử gia đã tìm ra nhiều cách phân loại lịch sử dựa trên những mốc thời gian và những nhóm sự kiện, ví dụ như phân loại lịch sử nhân loại thành tiền sử, cổ đại, trung đại, phục hưng, cận đại, sự phát triển của sử học, ngày càng nhiều công trình và phát kiến về quá khứ được ra đời. Điều này giúp cho con người có được tập dữ liệu lớn về xã hội loài người trước đây, cách tổ chức xã hội, lịch sử các cuộc xung đột tôn giáo và chính trị, văn hoá của các dân tộc khác nhau. Đây là nền tảng cho các nhà tư tưởng trên con đường thay đổi thế trên những bài học và dữ kiện từ lịch sử, các ngành khoa học như triết học, khoa học chính trị, kinh tế học, tâm lý học, nhân chủng học ra đời. Những cái tên lớn như Voltaire, Adam Smith, Marx, John Locke, Rousseau, Freud đã sản sinh ra những lý thuyết về chính trị như khế ước xã hội, các lý thuyết kinh tế thị trường, lý thuyết về phân tâm học, chủ nghĩa cộng sản. Những lý thuyết này phần nào đó tạo nên những cuộc cách mạng từ nhận thức cá nhân đến hệ thống xã hội, định hình thế giới chúng ta sống ngày học đã luôn là một hành trình không hồi kết. Những phát kiến của ngày hôm nay đều phần nào dựa trên, hoặc là phản bác lại, những ý tưởng của ngày hôm qua. Trong game Civilization V, mốc cuối cùng của cây công nghệ, Future Tech, là một sự lặp đi lặp lại của chính nó công nghệ tương lai là tiền đề cho chính công nghệ tương lai. Tương lai của khoa học là một bí ẩn mà con người cảm thấy đáng dấn thân, đáng chờ đợi, đáng hi vọng và cũng đáng cẩn trọng, vì ai biết được tương lai sẽ ra sao.

khoa học tự nhiên và khoa học xã hội